Tháo 'vòng kim cô' cho các viện nghiên cứu
- Thứ năm - 04/11/2021 07:55
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Thạc sĩ Nguyễn Đức Thành, Trưởng Bộ môn Nông học thuộc Viện Nghiên cứu Ngô nhớ lại chuyện giống Thịnh vượng 9999 của mình được bán bản quyền cho Công ty Cổ phần Giống cây trồng Nha Hố với giá hơn 3 tỉ đồng năm 2017: “Lúc gửi giống cho Công ty Cổ phần Giống cây trồng Nha Hố thử, thấy tốt nên họ dặn phải để riêng cho. Nhưng cùng thời điểm đó có doanh nghiệp khác vào Viện thăm, thấy tốt cũng đòi đặt cọc.
Chúng tôi phải gọi điện cho Công ty Cổ phần Giống cây trồng Nha Hố rằng ngày mai, nếu không ra được thì sẽ phải gả sản phẩm cho một doanh nghiệp khác. Đúng hôm sau, họ bay từ trong Nam ra đặt mua luôn. Tôi cảm thấy tự hào khi sản phẩm của mình được doanh nghiệp mua với giá cao, được nông dân đón nhận trong sản xuất”.
Chuông điện thoại của Thành những ngày sau đó liên tục reo, dòng trạng thái trên zalo, facebook liên tục được thả tim, like và các bình luận chúc mừng. Mọi chuyện giống như một bước ngoặt đối với anh dù ít người biết được rằng sau nộp thuế, tác giả chính chỉ được chia cho một khoản tiền ngang bằng cái xe máy phổ thông, còn các đồng tác giả thì nhận được phần ít hơn nữa.
Tốt nghiệp đại học, về Viện năm 2004 là những ngày tháng từ tờ mờ sáng anh đã cùng đồng nghiệp lọ mọ ra ruộng bọc đám râu ngô lại để tránh khi mặt trời lên, ong bướm khô cánh bay được sẽ mang phấn từ cây nọ sang cây kia làm lẫn lộn.
Là những buổi trời mưa gió, phải ra thăm ngô, vạch từng cái lá của hàng chục, hàng trăm dòng trong tập đoàn xem chúng có bị nhiễm bệnh hay không. Là những đêm đang ngủ cũng bật dậy vì trăn trở về một quy trình chọn tạo giống đang bị vấp, phải lần giở sách vở, mở máy tính ra xem lại nhật ký có gì sai sót.
2 giống ngô được công nhận chính thức, trong đó 1 đã bán bản quyền là thành quả hơn 10 năm trời nghiên cứu miệt mài của anh từ chọn tạo dòng, lai, thử khả năng kết hợp đến khảo nghiệm… Hiện tại anh cũng có 2 giống ngô khác đang công nhận thử, được doanh nghiệp ngỏ ý mua nhưng không muốn bán bởi còn ngại Nghị định 70 (Nghị định 70/2018/NĐ-CP) về quản lý sử dụng tài sản hình thành thông qua việc triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng vốn Nhà nước.
Hôm trước, khi đoàn của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan đến làm việc với Viện, anh cũng đã phản ánh những bất cập của Nghị định này: “Đích ngắm cuối cùng của sản phẩm khoa học chính là sự hưởng lợi của người dân. Muốn khuyến khích các nhà nghiên cứu đưa ra được nhiều sản phẩm tốt cho dân thì phải có chính sách, cơ chế phù hợp chứ giờ nếu bán bản quyền, Nhà nước lại thu hết thì chẳng ai dại gì mà bán cả vì có được lợi gì đâu?”…
“Ngoài bán bản quyền giống, chúng tôi còn đang hợp tác với các doanh nghiệp theo hình thức nhóm tác giả chịu trách nhiệm đứng ra duy trì dòng, sản xuất hạt lai còn doanh nghiệp thì kinh doanh rồi cùng phân chia lợi nhuận. Tuy nhiên cũng có nhiều doanh nghiệp vẫn muốn mua đứt bản quyền chứ không muốn hợp tác theo kiểu này”, Thạc sĩ Nguyễn Đức Thành cho biết.
Hệ thống phân phối của Viện khi ấy đã không đáp ứng được với nhu cầu của sản xuất, có những vụ ngô giống vừa thu hoạch ngoài ruộng về đã phải chia từng xẻng ở trên sân. Các Giáo sư, lãnh đạo Viện như Trần Hồng Uy, Ngô Hữu Tình cũng phải trực 24/24h, không dám rời cơ quan để mà lo khâu phân phối giống.
Ông Cường phân tích, lúc ấy có rất nhiều thuận lợi. Thứ nhất là tuy cơ chế thị trường mới mở cửa nhưng lại thông thoáng nhất. Nhà nước không thu thuế, còn Viện chủ động trong công tác chuyển giao các sản phẩm khoa học, chỉ thu khoảng 30% để tái tạo lại cơ sở vật chất, đầu tư cho nghiên cứu. Còn chủ yếu cho người đi chuyển giao được hưởng, nhưng vì là giống thụ phấn tự do nên mỗi kg họ cũng chỉ lãi một vài đồng. Chính vì thế đã kích thích được những người đi chuyển giao giống.
Thứ hai là nhu cầu lương thực cho người, cho vật nuôi khi ấy còn đang thiếu nên phong trào trồng ngô đông ở các tỉnngh rất mạnh. Nhờ đó, tuy là đơn vị nghiên cứu nhưng mỗi năm Viện cũng chuyển giao được vài trăm tấn ngô giống cho dân.
Người ta tranh nhau mua ngô giống, thậm chí sử dụng mọi mối quan hệ cả bên trên với xuống để mà chèo kéo, mua cho bằng được bởi một xe hàng ra khỏi cổng Viện là có khi đã lãi cả cây vàng rồi.
Động lực chính lúc này, khách quan là phong trào trồng ngô lai đang lên như diều, thậm chí một số tỉnh vùng cao còn cạo trọc đồi, núi để trồng ngô lai. Thứ nữa là định giá sản phẩm giống ngô lai cao hơn hẳn giống ngô thụ phấn tự do của giai đoạn trước nên đem lại lợi nhuận rất lớn cho Viện Nghiên cứu Ngô cũng như đơn vị trực thuộc là Công ty Tư vấn và Đầu tư Phát triển Ngô.
Thường cứ cuối vụ Xuân hay vụ Đông, sau khi xem trình diễn các mô hình ngô trên đồng, giới doanh nghiệp lại đánh từng đoàn ô tô con về Viện để ngỏ lời mua luôn bản quyền những giống có tiềm năng. Có những năm Viện bán bản quyền được tới 6 giống, có giống như LVN 61 đạt kỷ lục tới 6,8 tỉ đồng, còn bình quân giá cứ 4 - 5 tỉ đồng…
Để có được một giống ngô mới, nhanh cũng mất 6 năm, còn không phải trên dưới 10 năm. Chi phí tính từ chai nước cho công nhân uống trở đi hết không dưới 6 tỉ đồng, trong đó Nhà nước đầu tư chỉ một phần, gồm kinh phí nghiên cứu cho đề tài. Cụ thể, một đề tài về giống ngô thường được tối đa 4,8 tỉ đồng, chia cho 5 năm thì mỗi năm được chưa đến 1 tỉ đồng, còn Viện và cá nhân tác giả phải đầu tư ra cỡ 1/3 nữa mới ra được giống.
Bởi vậy, việc bán bản quyền rồi trích lại lợi nhuận 30% dành cho Viện và nhóm tác giả dù được 1 tỉ đồng đi chăng nữa cũng chỉ bù đắp được một phần nào đó, vẫn phải gắn thu, bù chi. Tuy nhiên nhờ có nó mà sức lao động của nhà khoa học được tái tạo, họ được động viên rất nhiều.
Không phụ thuộc vào phần đầu tư hạn chế của Nhà nước, Viện đã xây dựng được nhà Trung tâm chuyển giao, nhà tạo giống đàng hoàng như bây giờ hoàn toàn từ vốn tự có. Ngay cả hiện tại, trong hệ thống nghiên cứu của ngành nông nghiệp thì Viện Nghiên cứu Ngô tuy được đầu tư ít nhưng lại là đơn vị nộp thuế nhiều nhất, bình quân mỗi năm từ 2 tỉ đồng trở lên.